Chính sách Quốc gia về dược giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 (Ban hành kèm theo Quyết định số ...../2011/QĐ-CP ngày ... tháng ... năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ)
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
________
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
____________________________________
|
CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VỀ DƯỢC
GIAI ĐOẠN 2011-2020, TẦM NHÌN 2030
(Ban hành kèm theo Quyết định số ...../2011/QĐ-CP ngày ... tháng ... năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ)
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chỉ đạo xây dựng Ngành Dược Việt Nam phát triển một cách bền vững, đảm bảo cung ứng nguồn thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân. Phát triển Ngành Dược Việt Nam đúng hướng là một yếu tố quan trọng để đảm bảo an ninh y tế và an sinh xã hội trong giai đoạn trước mắt cũng như về lâu dài.
Trong những năm qua, Ngành Dược Việt Nam đã có những tiến bộ nhanh và hết sức cơ bản. Ngành Dược đã cung ứng đủ thuốc cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh của nhân dân, thuốc sản xuất trong nước đã chiếm gần 50% thị phần dược phẩm. Từ những cơ sở sản xuất, cung ứng nhỏ bé, đến nay Ngành Dược đã xây dựng được một hệ thống tương đối hoàn chỉnh từ sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông phân phối thuốc tới tận người bệnh. Những thay đổi trong hệ thống cung ứng thuốc đã tạo điều kiện cho thầy thuốc và người bệnh được tiếp cận nhanh chóng với những thành tựu của nhân loại, được sử dụng những loại thuốc mới phát minh, những thuốc chuyên khoa đặc trị dùng để chẩn đoán và chữa trị những bệnh nan y. Thị trường dược phẩm đã được vận hành trong nền kinh tế thị trường có sự định hướng và quản lý của Nhà nước, dựa trên nền tảng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng được pháp quy hóa theo hướng tuân thủ và đồng bộ với pháp luật quốc gia, hòa hợp khu vực và cam kết hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, Ngành Dược Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức to lớn, đang phải đối diện với những hạn chế do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Trình độ sản xuất, phân phối dược phẩm mặc dù đã tuân thủ những quy chuẩn quốc tế cơ bản nhưng do nguồn vốn và quy mô đầu tư chưa đủ lớn đã làm cho nền công nghiệp dược phẩm Việt Nam dường như dậm chân tại chỗ, nếu không kịp thời khắc phục sẽ dần dần trở nên lạc hậu so với sự phát triển không ngừng của các nước khác trên thế giới. Hệ thống và phương pháp đào tạo chậm đổi mới tạo ra nguồn nhân lực dược thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Sự yếu kém về nghiên cứu và ứng dụng không chỉ làm mất đi lợi thế nguồn dược liệu trong nước, làm giảm khả năng cạnh tranh mà còn làm cho Ngành Dược Việt Nam mất dần nhân tố phát triển bền vững và lệ thuộc nhiều hơn vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Việc sử dụng thuốc chưa thực sự hợp lý, đặc biệt là tình trạng dễ dãi, lạm dụng trong kê đơn thuốc và bán thuốc theo đơn vừa ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, vừa gây lãng phí cho xã hội, gây khó khăn cho bộ phận nhân dân lao động có thu nhập thấp.
Ngành Dược Việt Nam trong giai đoạn tới nằm trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau. Quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng; sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nền kinh tế ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Các hãng dược phẩm đa quốc gia, với lợi thế về phát minh thuốc mới và công nghệ phân phối hiện đại ngày càng tác động và có ảnh hưởng nhiều tới đội ngũ thầy thuốc và người tiêu dùng thuốc nước ta. Việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung có những thay đổi đồng thời gắn liền với những bước tiến mới trong khoa học, công nghệ sản xuất nguyên liệu và bào chế dược phẩm.
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định ban hành Chính sách Quốc gia về dược giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030, nhằm định hướng cho Ngành Dược Việt Nam phát triển một cách bền vững, góp phần quan trọng vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân với những nội dung dưới đây:
I. QUAN ĐIỂM
1. Thuốc là một loại hàng hóa đặc biệt, là một trong những phương tiện chủ yếu để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Nhà nước đảm bảo đủ thuốc thiết yếu, các vắc xin cơ bản cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh, đảm bảo định hướng công bằng và hiệu quả về sử dụng thuốc trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
2. Xây dựng một nền công nghiệp dược nội địa đủ mạnh, nhanh chóng tiếp cận và làm chủ công nghệ sản xuất và tiêu chuẩn tiên tiến của các nước phát triển. Tập trung đầu tư quy mô lớn cho sản xuất thuốc thành phẩm mang tên gốc (thuốc generic) có chất lượng tốt và giá thành hợp lý, là nguồn cung ứng chủ yếu cho nhu cầu từ nguồn ngân sách nhà nước, kinh phí bảo hiểm y tế, các chương trình y tế quốc gia thay thế thuốc nhập khẩu. Những thuốc mới phát minh, thuốc chuyên khoa đặc trị mà nước ta chưa có khả năng sản xuất được nhập khẩu theo nhu cầu điều trị của nhân dân.
3. Đa dạng hóa các hình thức đầu tư phát triển ngành dược, khuyến khích xã hội hóa đầu tư vào lĩnh vực dược. Thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường gắn với chuyển giao công nghệ và tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước. Khẩn trương hoàn thiện và ban hành các quy chuẩn kỹ thuật để nhà đầu tư trong nước có định hướng phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu dược và bao bì dược, giảm dần tỷ trọng nhập khẩu dược chất, tá dược và bao bì làm thuốc nhằm chủ động hơn về nguồn nguyên liệu và giá thành đầu vào của dược phẩm. Chủ động lựa chọn những phân khúc sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế so với hàng nhập khẩu để đầu tư, phát triển. Phát triển công nghiệp sản xuất nguyên liệu và bao bì dược cần được đặt vào tổng thể phát triển các ngành công nghiệp đồng hành và hỗ trợ công nghiệp dược như công nghiệp hóa dầu, hóa chất cơ bản, cơ khí chính xác và chế tạo máy móc.
3. Xác định những loại dược liệu là thế mạnh và tiềm năng của Việt Nam để quy hoạch, bảo tồn và phát triển ở quy mô công nghiệp, nghiên cứu và xây dựng thành sản phẩm trọng điểm quốc gia. Có chính sách hỗ trợ thích đáng để quy hoạch và phát triển những vùng nuôi trồng cây, con làm thuốc; giảm dần tỷ lệ nhập khẩu dược liệu, tăng tỷ trọng xuất khẩu dược liệu và thuốc từ dược liệu.
4. Đảm bảo vai trò quản lý, chỉ đạo của cơ quan quản lý Nhà nước về dược, thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động kinh doanh dược phẩm. Đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng thuốc, thể hiện trên giá thuốc hợp lý và chất lượng thuốc tốt, ưu tiên sử dụng thuốc sản xuất trong nước. Đảm bảo các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội, dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, người nghèo, bà mẹ, trẻ em, người già có đủ thuốc phòng bệnh, chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế hoặc miễn phí do ngân sách Nhà nước chi trả. Ngành Y tế đảm bảo cung ứng thuốc kịp thời cho các yêu cầu khẩn cấp như thảm họa, thiên tai, dịch bệnh và các nhu cấu khẩn cấp khác.
5. Chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dược, tiếp cận và ứng dụng thành tựu công nghệ bào chế dược phẩm tiên tiến của nước ngoài. Phát huy nội lực, giữ gìn bản sắc nền y- dược học dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Phát triển mối quan hệ với ngành dược thế giới, tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác để cùng phát triển.
II. MỤC TIÊU
Phấn đấu đến năm 2020, Ngành dược Việt Nam phát triển với trình độ công nghệ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông- Nam Á; tầm nhìn đến năm 2030, Ngành Dược Việt Nam phải đạt được những tiêu chuẩn của các nước phát triển trên thế giới trong lĩnh vực dược. Đảm bảo luôn sẵn có, đầy đủ các loại thuốc phòng bệnh và chữa bệnh đáp ứng kịp mô hình, cơ cấu bệnh tật tương ứng từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội với giá thuốc hợp lý; Thầy thuốc và nhân dân được hướng dẫn và thông tin đầy đủ về thuốc nhằm đảm bảo kê đơn và sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả trong các cơ sở điều trị và tại cộng đồng. Chuẩn hóa và nâng cao chất lượng kê đơn thuốc, chấm dứt tình trạng lạm dụng trong việc kê đơn của thầy thuốc và thói quen sính thuốc nhập ngoại của người dân gây lãng phí tiền của và ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh.
III. CÁC CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU
1. Chính sách thuốc thiết yếu
Thuốc thiết yếu là những thuốc rất cần cho công tác chăm sóc sức khỏe toàn dân. Nhà nước ban hành các chính sách thích hợp để thúc đẩy việc nghiên cứu, sản xuất, xuất- nhập khẩu, cung ứng thuốc thiết yếu; đảm bảo cho nhân dân- đặc biệt là người nghèo, dân tộc ít người, người dân ở vùng sâu, vùng xa, miền núi đều có điều kiện lựa chọn, sử dụng các thuốc thiết yếu để chữa các bệnh thông thường ở mọi lúc, mọi nơi với chất lượng thuốc tốt, số lượng đủ, dạng bào chế phù hợp, sử dụng an toàn và giá thuốc hợp lý.
Bộ Y tế xây dựng và ban hành Danh mục thuốc thiết yếu, định kỳ xem xét, bổ sung cho phù hợp với mô hình bệnh tật, điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam và những tiến bộ trong nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của y học và bào chế dược phẩm của thế giới.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Bộ Y tế và các bộ ngành có liên quan bố trí nguồn kinh phí, bao gồm cả bảo hiểm y tế để cung ứng thuốc thiết yếu phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân, đảm bảo bất kỳ người dân nào trong địa phương cũng có đủ thuốc khi mắc phải bệnh tật, ốm đau.
2. Chính sách thuốc generic
Chính sách thuốc generic phải được coi là chính sách nền tảng trong sản xuất, xuất nhập khẩu, cung ứng và sử dụng thuốc, vì Việt Nam là nước đang phát triển, đời sống của nhân dân và người lao động còn chưa hết khó khăn. Thuốc generic được ưu tiên toàn diện từ đăng ký lưu hành, sản xuất, xuất- nhập khẩu, cung ứng và sử dụng.
Các nhà máy dược phẩm đăng ký và sản xuất để lưu hành thuốc generic tại Việt Nam được hưởng các chính sách ưu đãi về vay vốn, thuê đất và nộp thuế. Thuốc generic sản xuất tại Việt Nam đạt tiêu chuẩn do Bộ Y tế quy định được ưu tiên sử dụng trong các cơ sở y tế công lập, trong việc đấu thầu mua thuốc từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn kinh phí bảo hiểm y tế và các chương trình y tế quốc gia. Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân cung ứng và sử dụng thuốc generic.
Kê đơn, sử dụng thuốc generic đạt chuẩn tương đương sinh học thay thế các thuốc gốc nhập khẩu phải trở thành một trong những mục tiêu quan trọng của ngành Y tế. Bộ Y tế cần ban hành những quy định, hướng dẫn Sở Y tế các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, các cơ sở khám chữa bệnh và đội ngũ thầy thuốc hiểu rõ và làm tốt chính sách này. Chính sách này cần được tổ chức tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng để toàn thể nhân dân cùng hưởng ứng tham gia, góp phần khắc phục thói quen sử dụng thuốc nhập ngoại đắt tiền của một bộ phận nhân dân. Kê đơn, sử dụng thuốc generic cần được nhân rộng trong phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam”, tạo ra cuộc vận động lớn, rộng khắp và lâu dài.
Bằng hàng rào kỹ thuật cho phép, Bộ Y tế ban hành theo thẩm quyền các chính sách để hạn chế nhập khẩu các loại thuốc generic mà Việt Nam đã sản xuất đảm bảo cả về chất lượng và số lượng. Các loại thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc mới phát minh, thuốc còn trong giai đoạn bảo hộ sáng chế được nhập khẩu theo nhu cầu phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân.
3. Chính sách thuốc bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế là một chính sách quan trọng trong xã hội hiện đại, là sự quan tâm, chia sẻ của toàn thể cộng đồng tới mỗi một bệnh nhân. Thuốc sử dụng cho quỹ bảo hiểm y tế, vì thế phải thể hiện được chính sách nhân đạo, hướng tới cộng đồng rộng lớn, cho đa số người dân và người nghèo. Nguồn kinh phí chi trả tiền thuốc cho bảo hiểm y tế phải được quản lý chặt chẽ từ trung ương đến địa phương và trong mỗi cơ sở khám chữa bệnh với mục tiêu vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Việc sử dụng thuốc phải tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả.
Lựa chọn thuốc bảo hiểm y tế lấy tiêu chí đảm bảo chất lượng điều trị, an toàn cho sử dụng; trên cơ sở đó để lựa chọn nhà sản xuất, cung ứng có chi phí thấp nhất, giá thuốc phù hợp nhất để mua được thuốc cho nhiều người cùng sử dụng. Không cung ứng cho bảo hiểm y tế những loại thuốc mà giá thành có tỷ lệ cao cho chi phí quảng cáo sản phẩm, quảng cáo thương hiệu và các chi phí không phù hợp khác. Nghiêm cấm mua thuốc bảo hiểm y tế có chi phí hoa hồng cho bác sĩ kê đơn thuốc hoặc chi phí làm ảnh hưởng không tốt tới kê đơn, sử dụng thuốc của các cơ sở điều trị. Công tác cung ứng thuốc cho bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh phải được cụ thể hóa bằng những quy định rõ ràng, minh bạch và áp dụng thống nhất cho hệ thống khám bệnh, chữa bệnh công lập trên toàn quốc.
4. Chính sách về dược liệu và thuốc từ dược liệu
Việt Nam là một trong những nước thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa rất phong phú về đa dạng sinh học và có nhiều tiềm năng về cây thuốc. Phát triển dược liệu ở Việt Nam theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả cao về kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững. Kết hợp chặt chẽ giữa việc phát triển vùng nuôi trồng cây, con làm thuốc, bảo tồn nguồn gen và phát triển những loài dược liệu quý hiếm, đặc hữu của nước ta với công nghiệp chế biến theo hướng đầu tư kỹ thuật- công nghệ tiên tiến thay cho cách làm thủ công truyền thống hiện nay.
Phát triển dược liệu trước hết phải đánh giá và xác định cây, con làm thuốc có thế mạnh của từng vùng, từng địa phương. Từ đó định hướng cho việc khoanh vùng, bảo vệ, nghiên cứu, phát triển và khai thác phù hợp với khí hậu thổ nhưỡng, với nhu cầu thị trường, với khả năng áp dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật. Nhà nước có chính sách đặc biệt, tạo điều kiện cho những sản phẩm có nguồn gốc từ dược liệu Việt Nam mang thương hiệu Quốc gia được quảng bá rộng rãi trên thị trường trong nước và quốc tế.
Phát triển dược liệu trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa ba đối tượng: cơ sở nghiên cứu khoa học về dược liệu, người nuôi trồng dược liệu và doanh nghiệp sử dụng dược liệu để sản xuất thuốc. Cơ quan quản lý nhà nước về dược và các cấp chính quyền cần lắng nghe và nắm bắt được nguyện vọng của nhân dân, khả năng của các nhà khoa học và mong muốn của các doanh nghiệp để ban hành, chỉ đạo và tuyên truyền những quy định phù hợp với thực tế, đảm bảo cho công tác dược liệu phát triển theo hướng bền vững.
Phát triển dược liệu phải gắn liền với việc bắt kịp những tiến bộ trong lĩnh vực di truyền học, lai tạo và cấy ghép gen để tăng năng xuất cây trồng, khắc phục bớt những lệ thuộc vào khí hậu và biến đổi môi trường.
Phát triển dược liệu cần định hướng và gắn kết việc phát triển các vùng nuôi trồng dược liệu với việc xóa đói giảm nghèo, với việc bảo vệ và trồng rừng; phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái.
5. Hệ thống phân phối thuốc và chính sách tiếp cận thuốc của nhân dân, của đối tượng chính sách, người nghèo, phụ nữ, trẻ em và người già
Hệ thống phân phối thuốc được quy hoạch và quản lý trên cơ sở tuân thủ những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và theo hướng cung ứng thuốc khoa học và hợp lý, đảm bảo cho người dân tiếp cận với thuốc một cách thuận lợi, dễ dàng trong mọi tình huống. Trong đó, các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội, người nghèo, phụ nữ, trẻ em và người già là nhóm người được chú trọng ưu tiên để dễ dàng mua được thuốc đảm bảo chất lượng và có giá rẻ.
Về phân phối, bán buôn thuốc: các chính sách cần hướng tới việc thúc đẩy quá trình sáp nhập, tập trung các công ty bán buôn; loại bớt đầu mối trung gian để rút ngắn đường đi của thuốc, hạ giá thành sản phẩm. Triển khai áp dụng công nghệ phân phối thuốc tiên tiến, trên cơ sở thực hiện các quy định về thực hành tốt phân phối thuốc (GDP) và thực hành tốt bảo quản thuốc (GSP). Cần thiết phải thành lập đơn vị làm nhiệm vụ công ích hoạt động phi lợi nhuận, có trách nhiệm tổ chức đấu thầu thuốc quốc gia, bảo quản và cung ứng thuốc cho các chương trình, mục tiêu y tế quốc gia và các bệnh viện tham gia khám chữa bệnh cho đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế. Dự trữ quốc gia về thuốc phải được quan tâm đúng mức. Phải luôn có một lượng thuốc dự trữ để sử dụng trong các trường hợp khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh, thảm họa và góp phần bình ổn giá thuốc.
Về cung ứng, bán lẻ thuốc: các quy định chuyên ngành cần hướng tới mục tiêu bố trí đủ các cơ sở bán lẻ, các điểm cấp phát thuốc, đặc biệt là ở những vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa để bất kỳ người dân nào cũng có thuốc để sử dụng khi ốm đau. Các cơ sở bán lẻ thuốc cần thực hiện theo lộ trình nguyên tắc thực hành tốt nhà thuốc (GPP); đảm bảo tư vấn, hướng dẫn nhân dân sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả. Ngành Dược Việt Nam phải khẩn trương tổ chức lại, xây dựng và làm chủ hệ thống bán lẻ trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện để hình thành các chuỗi nhà thuốc lớn có sức cạnh tranh trên thị trường, nhằm đạt được mục đích chủ động định hướng cung ứng, sử dụng các loại thuốc hợp lý để không bị lệ thuộc vào các hãng phân phối dược phẩm đa quốc gia, không bị lệ thuộc vào đầu tư từ nước ngoài, vì an ninh quốc gia trong lĩnh vực dược.
Trên cơ sở tôn trọng thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, nhưng trong các trường hợp đặc biệt cần phải bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền lợi chính đáng được tiếp cận và sử dụng thuốc của đại đa số nhân dân, Bộ Y tế vận dụng các quy định trong Hiệp định TRIPS để ban hành các văn bản kỹ thuật để áp dụng cho các trường hợp sau:
a. Sản xuất các loại thuốc vẫn còn trong giai đoạn bảo hộ sở hữu trí tuệ để đảm bảo người bệnh có thể tiếp cận được với thuốc nhằm chống lại một đại dịch; hoặc trong trường hợp thuốc phát minh có giá bán cao hơn khả năng chi trả của đại đa số người dân.
b. Đăng ký sớm một loại thuốc để đảm bảo thuốc được lưu hành ngay sau khi thuốc đó hết hạn bảo hộ sở hữu trí tuệ.
c. Nhập khẩu song song một loại thuốc đã có số đăng ký lưu hành tại Việt Nam, nếu số lượng thuốc đã đăng ký nhập khẩu không đủ cho nhu cầu sử dụng hoặc do sự độc quyền mà nhà phân phối bán thuốc với giá cao gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
6. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về dược
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về dược bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dược, đảm bảo đồng bộ với hệ thống pháp luật quốc gia và phù hợp với những cam kết hội nhập quốc tế. Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản không còn phù hợp với tình hình thực tế để tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ cho doanh nghiệp dược Việt Nam có lợi thế cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.
Cơ quan quản lý nhà nước về dược từ trung ương đến địa phương cần được tăng cường cả về nguồn lực con người và cơ sở vật chất. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý dược các cấp có phẩm chất tốt, tận tụy phục vụ nhân dân và có tính chuyên nghiệp cao. Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành; trang bị máy móc, thiết bị, phần mềm để tiến tới quản lý điện tử trong lĩnh vực dược. Đảm bảo mối liên hệ thông suốt trực tiếp từ Cục Quản lý dược ở trung ương tới Sở Y tế các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương và các tuyến y tế địa phương nhằm chỉ đạo chuyên môn và phổ biến các văn bản quản lý được nhanh chóng, kịp thời. Khẩn trương xây dựng lộ trình và hoàn thiện quy trình tiếp nhận hồ sơ, công văn giấy tờ thông qua cổng thông tin điện tử, nhằm rút ngắn và loại bỏ các thủ tục hành chính thủ công hiện nay.
Cần nghiên cứu để tổ chức mô hình cơ quan quản lý nhà nước về dược các cấp theo hướng quản lý tập trung, toàn diện thuốc và các sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Phải đảm bảo mỗi sản phẩm chỉ do một cơ quan chuyên ngành quản lý để tránh chồng chéo, giảm bớt thủ tục phiền phức cho doanh nghiệp, đồng thời tránh bỏ sót để tất cả mọi sản phẩm đều được quản lý trong hành lang pháp lý rõ ràng nhằm đảm bảo an toàn và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
7. Đào tạo và bố trí nhân lực dược
Đào tạo nhân lực dược đáp ứng yêu cầu phát triển Ngành Dược trong giai đoạn mới, trước hết phải sắp xếp, củng cố hệ thống các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề về dược; trong đó ưu tiên chuẩn hóa cơ sở vật chất, chuẩn hóa giáo viên, đảm bảo chất lượng đào tạo và tổ chức các hình thức đào tạo phù hợp với nhu cầu.
Tiếp tục đổi mới chương trình, phương pháp dạy và học, đào tạo có định hướng chuyên ngành để phù hợp với yêu cầu thực tế, chú trọng đào tạo dược sĩ lâm sàng, dược sĩ bán lẻ thuốc có đầy đủ kiến thức và kỹ năng tư vấn, góp phần tăng cường hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả cho thầy thuốc và nhân dân. Có chính sách đào tạo lại, đào tạo theo địa chỉ để khuyến học, khuyến tài và có đủ nhân lực dược ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Mở rộng quy mô đào tạo nhân lực dược phải gắn liền với chính sách sử dụng dược sĩ sau khi tốt nghiệp để đảm bảo phân bố dược sĩ đồng đều giữa các khu vực, vùng miền. Xây dựng và vận hành hình thức đào tạo đặt hàng, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp sử dụng lao động, cơ quan công quyền các cấp với cơ sở đào tạo để chủ động quy hoạch nguồn nhân lực dược theo nhu cầu của thực tiễn; khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoặc đầu tư cho đào tạo hời hợt mang nặng tính bao cấp dẫn đến chất lượng đào tạo còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế như hiện nay.
8. Đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả. Tăng cường công tác truyền thông, thông tin thuốc.
Đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả là mối quan tâm lớn của y tế công cộng, Ngành Dược phải coi đây là yếu tố then chốt của công tác chăm sóc dược để đảm bảo an toàn sức khỏe cho nhân dân. Xây dựng, phát triển các trung tâm nghiên cứu sinh khả dụng/tương đương sinh học của thuốc (BA/BE) là cơ sở để đánh giá tác dụng, hiệu lực của thuốc sản xuất và lưu thông trên thị trường trước khi đưa vào sử dụng. Số liệu về sinh khả dụng/tương đương sinh học của thuốc là tiêu chí quan trọng liên quan tới quyết định kê đơn, điều trị của thầy thuốc, ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả. Bộ Y tế khẩn trương ban hành và triển khai thực hiện các nguyên tắc thực hành tốt kê đơn thuốc, đồng thời với việc triển khai thực hành tốt nhà thuốc. Chỉ có thể đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả khi triển khai thành công, đồng bộ một lúc cả hai nguyên tắc thực hành tốt nhà thuốc và thực hành tốt kê đơn thuốc.
Công tác thu thập, phân tích và cung cấp các thông tin về thuốc cần được kiện toàn và đẩy mạnh hơn nữa. Quy hoạch và hoàn thiện hệ thống cảnh giác dược trên phạm vi toàn quốc, có nhiệm vụ tiếp nhận, phân tích, phát hiện, đánh giá các phản ứng có hại của thuốc để kịp thời dự báo, phòng tránh các tác dụng không mong muốn của thuốc, đảm bảo an toàn cho người sử dụng thuốc. Khẩn trương thành lập các trung tâm thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc ở ba miền Bắc- Trung- Nam,. Tại một số bệnh viện lớn, nơi tập trung các nhà khoa học chuyên khoa đầu ngành phải được đầu tư và phát triển các đơn vị thông tin thuốc thành các trung tâm khu vực có nhiệm vụ tiếp nhận, phân tích các phản ứng có hại của thuốc để kịp thời tư vấn phương án xử lý cho thầy thuốc ở các tuyến bệnh viện và cho nhân dân khi có yêu cầu.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và bằng các hình thức thích hợp khác, cơ quản quản lý nhà nước về dược từ trung ương đến địa phương cung cấp kịp thời các thông tin về thuốc cho cán bộ y tế, người bệnh và nhân dân. Các cơ sở y tế, bác sĩ và dược sĩ có nhiệm vụ tư vấn, dặn dò bệnh nhân cách sử dụng thuốc khi kê đơn và khi bán thuốc. Công khai, minh bạch các thông tin có liên quan đến thuốc là trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước, của các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực dược, của các sở khám chữa bệnh để nhân dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng, đầy đủ nhất.
Trong thời đại công nghệ truyền thông phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thông tin toàn cầu, đa chiều và có cả những nguồn thông tin sai lệch, Bộ Y tế cần xác lập những kênh thông tin chính thống về thuốc: kênh thông tin chuyên sâu cho cán bộ y tế và kênh thông tin phổ cập cho nhân dân. Quản lý chặt chẽ việc thông tin, quảng cáo thuốc của các tổ chức, cá nhân và các đơn vị sản xuất, cung ứng thuốc trên các phương tiện thông tin đại chúng, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân thông tin, quảng cáo thuốc không trung thực. Đặc biệt nghiêm khắc với những tổ chức, cá nhân lợi dụng lòng tin của người tiêu dùng để quảng cáo thực phẩm chức năng hoặc các sản phẩm khác gây nhầm lẫn với thuốc chữa bệnh, gây mất an toàn hoặc làm thiệt hại cho người tiêu dùng.
9. Hợp tác và hội nhập quốc tế
Việt Nam đã là thành viên chính thức của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN và của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, việc hòa hợp và hội nhập với thế giới là xu hướng tất yếu và mức độ ngày càng trở nên sâu rộng hơn. Hợp tác và hội nhập quốc tế về lĩnh vực dược, trước hết cần xác định được vai trò, vị trí của ngành công nghiệp dược Việt Nam trong chuỗi giá trị dược phẩm toàn cầu. Phấn đấu để ngành công nghiệp dược Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của hệ thống công nghiệp dược khu vực và thế giới.
Ngành Dược Việt Nam cần chủ động đẩy nhanh hơn tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, nhưng phải đảm bảo được các nguyên tắc sau:
- Hòa hợp quy chế: Tôn trọng các thông lệ quốc tế và những điều ước song phương, đa phương mà Việt Nam đã tham gia hoặc cam kết. Các tiêu chuẩn, nguyên tắc trong sản xuất, bảo quản, lưu thông, phân phối và sử dụng thuốc phải hướng tới sự phù hợp ngày càng cao với các tiêu chuẩn và nguyên tắc chung quốc tế.
- Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và giữ gìn bản sắc dân tộc: Trong khi nghiên cứu để áp dụng các thành tựu khoa học- kỹ thuật của các nước phát triển, phải lựa chọn và triển khai theo lộ trình phù hợp với thực tế của Việt Nam. Phát huy truyền thống và thế mạnh nền y-dược học cổ truyền kết hợp với việc tiếp cận, ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ bào chế dược phẩm tiên tiến; đảm bảo tính độc lập, tự chủ và đảm bảo an ninh quốc gia về dược. Hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dược.
IV. BIỆN PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Y tế, theo chức năng, nhiệm vụ của mình xây dựng, hoàn thiện và ban hành theo thẩm quyền các các văn bản quy phạm pháp luật, các quy chuẩn kỹ thuật để triển khai Chính sách này; phối hợp với cơ quan hữu quan để dự thảo và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các đề án, chính sách cụ thể nhằm phát triển Ngành Dược Việt Nam theo đúng định hướng của Chính phủ.
2. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Giáo dục- Đào tạo, Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành liên quan để tìm giải pháp khắc phục khó khăn và triển khai các nhiệm vụ trọng điểm về đào tạo và tuyển dụng nhân lực dược. Xây dựng, ban hành chính sách thu hút, sử dụng dược sĩ; tạo ra những đột phá tác động vào quá trình phân bố nhân lực dược giữa các vùng miền, khắc phục tình trạng thiếu dược sĩ ở những vùng khó khăn, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
3. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nội vụ để xây dựng đề án thành lập Tổng Kho thuốc Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế, là đơn vị công ích, hoạt động phi lợi nhuận; có nhiệm vụ tổ chức đấu thầu, bảo quản và cung ứng thuốc cho các Chương trình, mục tiêu y tế quốc gia, cho các cơ sở khám chữa bệnh có nguồn kinh phí từ bảo hiểm y tế hoặc từ ngân sách nhà nước trên toàn quốc.
Nghiên cứu trình Chính phủ xem xét mô hình cơ quan quản lý nhà nước về dược theo hướng giao cho một cơ quan quản lý tập trung, toàn diện thuốc và các sản phẩm có thành phần tương tự như thuốc hoặc có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người như thuốc, khắc phục những bất cập do tình trạng quản lý phân tán như hiện nay. Trước mắt bố trí đủ nhân lực dược trong cơ quan quản lý nhà nước về dược từ trung ương đến các tuyến y tế địa phương, đảm bảo sức mạnh và hiệu lực của cơ quan quản lý nhà nước về dược trên toàn quốc.
4. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch dữ trữ thuốc quốc gia, phân bổ vốn từ nguồn ngân sách nhà nước để đảm bảo luôn luôn có một lượng thuốc dự trữ, sử dụng trong các trường hợp khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh, thảm họa và bình ổn giá thuốc.
5. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương để quy hoạch các vùng nuôi, trồng dược liệu; ưu tiên bố trí giao đất, giao rừng cho các dự án phát triển dược liệu.
6. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Thông tin- truyền thông, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, các đơn vị truyền thông, báo chí để tuyên truyền các nội dung trong Chính sách này. Tăng cường hướng dẫn người dân nâng cao kiến thức sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả; tích cực hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam dùng thuốc Việt Nam”. Bộ Thông tin- Truyền thông có các giải pháp thích hợp để quản lý chặt chẽ thông tin về thuốc trên mạng Internet, hạn chế những tác động tiêu cực do thông tin sai lệch, làm mất an toàn trong sử dụng thuốc hoặc gây thiệt hại kinh tế cho người tiêu dùng.
7. Các Bộ, ngành theo chức năng, thẩm quyền có nhiệm vụ triển khai hoặc phối hợp với Bộ Y tế triển khai thực hiện các lĩnh vực phụ trách có liên quan theo nội dung của Chính sách này.
8. Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương tiến hành xây dựng và phê duyệt kế hoạch triển khai Chính sách Quốc gia về dược trên địa bàn; thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước về lĩnh vực dược; áp dụng cơ chế, chính sách vào địa phương cho phù hợp với điều kiện thực tế nhằm khuyến khích phát triển ngành dược, góp phần đảm bảo công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong giai đoạn mới.
9. Bộ Y tế có trách nhiệm làm đầu mối phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương tổ chức các hoạt động cụ thể, lập kế hoạch triển khai thực hiện; hướng dẫn kiểm tra, giám sát và định kỳ tổng hợp báo cáo Chính phủ tình hình thực hiện Chính sách Quốc gia về dược. Tổ chức sơ kết việc thực hiện Chính sách này vào năm 2015 và tổng kết vào năm 2020, trên cơ sở đó tiếp tục thực hiện hoặc điều chỉnh để thực hiện trong giai đoạn 2021-2030.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
Tên văn bản : Nghị quyết về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Loại văn bản : Nghị quyết
Số hiệu : 63/NQ-CP
Ngày ban hành : 23/12/2009
Cơ quan ban hành : Chính phủ,
Người ký : Nguyễn Tấn Dũng,
Ngày hiệu lực :
Văn bản liên quan : 0
|