ĐÁNH GIÁ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 21-NQ/TW CỦA HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XII VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
ĐÁNH GIÁ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 21-NQ/TW CỦA HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XII VỀ CÔNG TÁC DÂN SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
TS. Nguyễn Văn Hùng; ThS. Nguyễn Thị Tố Quyên; TS. Trần Đức Thuận; CN. Vũ Thị Thanh Nga; CN. Ngô Văn Vương; ThS. BS. Nguyễn Thị Ngọc Ánh và cộng sự
Nơi công bố: Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
Năm công bố: 2023
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để có bằng chứng cung cấp để Bộ Y tế xây dựng báo cáo về kết quả thực hiện Nghị quyết trên, Viện Chiến lược và Chính sách y tế phối hợp cùng với Tổng cục DS-KHHGĐ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu “Đánh giá việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới”
2. MỤC TIÊU
Đánh giá thực trạng phổ biến, quán triệt và ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 21-NQ/TW cùng những kết quả đạt được tại các địa phương trong cả nước.
Phân tích các hạn chế, bất cập; nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và bài học kinh nghiệm triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW trong thời gian qua.
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW trong thời gian tới.
3. ĐỊA BÀN
Nghiên cứu được thực hiện tại 6 tỉnh gồm Tuyên Quang, Thái Bình, Nghệ An, Gia Lai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang.
4. CÁC PHÁT HIỆN CHÍNH
• Về phổ biến quán triệt Nghị quyết
Sau khi Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW, Ban Tuyên giáo Trung ương ; Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn để thực hiện phổ biến, quán triệt Nghị quyết. Ngay sau đó, trung ương và các tỉnh ủy/thành ủy cũng đã xây dựng kế hoạch, tổ chức phổ biến, quán triệt nghị quyết, kết quả trung ương đã tổ chức hội nghị trực tiếp để phổ biến, quán triệt nghị quyế.
Các Tỉnh ủy, thành ủy đã tổ chức, phổ biến quán triệt nghị quyết bằng nhiều hình thức như trực tuyến, trực tiếp, lồng ghép, in ấn, phát tài liệu hoặc kết hợp cả trực tuyến, trực tiếp, cấp phát tài liệu, v.v....nhưng hình thức trực tiếp và trực tuyến được nhiều địa phương thực hiện.
• Về kết quả thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp
- Công tác chỉ đạo điều hành
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy chính quyền đã được thực hiện tốt. Đã có sự chỉ đạo và tham gia của các cấp Đảng và Chính quyền trong triển khai thực hiện Nghị quyết. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan lãnh đạo cao nhất của trung ương và địa phương được ban hành là hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện.
Công tác phối hợp liên ngành cũng đã được trú trọng và triển khai thực hiện dưới nhiều hình thức như ký kết chương trình phối hợp giữa các ngành; ký hợp đồng trách nhiệm để thực hiện nhiệm;
Các địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo công tác dân số, có phân công nhiệm vụ cho từng ngành trong việc triển khai nhiệm vụ, nhưng nhiều địa phương không tổ chức họp định kỳ họp ban chỉ đạo.
- Đổi mới nội dung truyền thông
Công tác truyền thông giáo dục đã có nhiều thay đổi về nội dung, thông điệp và hình thức, tuy nhiên, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương về chuyển đổi trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển vẫn còn hạn chế. Số lượng các sản phẩm truyền thông như tờ rơi, tờ bướm chưa đủ để cấp phát cho người dân; thời lượng phát tin trên hệ thống loa truyền thanh các xã phường/thị trấn còn ít.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về dân số
Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động để xây dựng, ký ban hành, trình các cấp có thẩm quyền ban hành các nhiệm vụ, đề án tại Nghị quyết số 137/NQ-CP, trong đó nhiệm vụ, đề án có nhiều tỉnh/thành phố ban hành như: Chiến lược dân số Việt Nam 2030; Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030. Một số nhiệm vụ, đề án số địa phương ban hành còn thấp như Đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân số các cấp đến năm 2030; Thông tư quy định chế độ khuyến khích tinh thần, vật chất đối với tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính sách dân số.
- Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số
Mạng lưới dịch vụ DS/SKSS/KHHGĐ; sàng lọc chẩn đoán, điều trị các bệnh trước sinh và sơ sinh; khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi đã được củng cố, kiện toàn, nhưng hiệu quả cung cấp dịch vụ chưa cao.
- Đảm bảo nguồn lực cho công tác dân số
Ngân sách nhà nước từ chương trình mục tiêu Y tế - dân số không còn, nguồn lực đầu tư cho công tác dân số phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách địa phương nhưng thiếu ổn định (đặc biệt là trong và sau giai đoạn dịch covid-19) đã ảnh hưởng đến việc thực hiện bền vững các chỉ tiêu, mục tiêu của nghị quyết.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy
Mô hình tổ chức bộ máy làm công tác DS- KHHGĐ đang được vận hành tương đối đa dạng tại các địa phương trong cả nước. Mỗi mô hình đều có những lợi thế và bất cập. Tuy nhiên, sự biến động, thay đổi thường xuyên về mô hình tổ chức, thiếu biên chế đã ảnh hưởng đến tâm lý của cán bộ, ảnh hưởng đến công tác tham mưu, chỉ đạo điều hành và phối hợp trong quá việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
• Về những hạn chế, bất cập
Công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện nghị quyết chưa thường xuyên; việc xử lý các trường hợp vi phạm của chính sách dân số chưa đúng mức, kịp thời, nhất là đối với cán bộ đảng viên đã ảnh hưởng không tốt đến việc triển khai thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
Công tác tham mưu ban hành nhiệm vụ đề án, ký ban hành các nhiệm vụ đề án còn chậm so với kế hoạch.
Cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về chuyển đổi trọng tâm chính sách từ KHHGĐ sang dân số và phát triển nên nội dung tập huấn, những định hướng chỉ đạo vẫn tập trung nhiều vào dân số KHHGĐ.
Hiện nay nhiều tỉnh, thành phố chưa thành lập Ban chỉ đạo công tác dân số hoặc sáp nhập ban chỉ đạo công tác dân số với ban chỉ đạo chăm sóc và nâng cho sức khỏe nhân dân. Có địa phương đã thành lập ban chỉ đạo công tác dân số nhưng không tổ chức họp định kỳ cũng ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành, phối hợp liên ngành trong triển khai chương trình dân số
Chất lượng, số lượng, phương thức tổ chức cung cấp dịch vụ sàng lọc chẩn đoán trước sinh và sơ sinh; tư vấn khám sức khỏe trước hôn nhân; chăm sức khỏe người cao tuổi còn hạn chế, chưa có cơ chế chi trả BHYT cho các loại hình dịch vụ này.
Nguồn lực đầu tư chưa đảm bảo với nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch theo Nghị quyết 21-NQ/TW và Nghị quyết 137/NQ-CP được giao ngày càng nhiều, nhưng ngân sách đầu tư cho công tác dân số - phát triển lại giảm.
5. KHUYẾN NGHỊ
• Đối với Chính phủ
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành cơ chế, chính sách về bảo hiểm y tế theo hướng đưa danh mục chi trả các dịch vụ kỹ thuật sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh vào thanh toán BHYT.
Chỉ đạo Bộ Kế hoạch Đầu tư hướng dẫn các địa phương Xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách đầu tư phát triển các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản trong đó có dịch vụ về y tế, dân số. Xây dựng, trình UBND tỉnh phê duyệt quy định về lồng ghép các yếu tố dân số vào chiến lược, quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương.
Chính phủ ban hành các cơ chế xã hội hóa trong việc tổ chức thực hiện chính sách nâng cao chất lượng dân số; chăm sóc người cao tuổi. Tăng mức đầu tư cho chương trình dân số từ ngân sách trung ương để thực hiện mục tiêu điều chỉnh mức sinh thống nhất trên toàn quốc (điều phối hoạt động, phương tiện tránh thai cấp miễn phí); kinh phí đầu tư cho các hoạt động nâng cao chất lượng dân số thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 cho các địa phương thuộc địa bàn thụ hưởng.
• Đối với Bộ Y tế
Bộ Y tế giao cho Ban soạn thảo, Tổ biên tập, cơ quan thường trực xây dựng Luật dân số đánh giá Pháp lệnh Dân số năm 2003 cũng như các văn bản liên quan để thêm bằng thông tin trong tư vấn, phản biện trong quá trình xây dựng Luật dân số.
Phối hợp với Bộ Tài chính sớm ban hành Thông tư hướng dẫn các hoạt động và định mức chi cho công tác dân số; xây dựng mức giá dịch vụ sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh để có cơ sở thực hiện đồng bộ trong cả nước.
Căn cứ vào thực trạng biến động dân số giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm cho phù hợp với mức sinh và cơ cấu dân số của từng địa phương. Triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ các cặp vợ chồng sinh đủ 02 con. Tại các địa phương có mức sinh thấp không giao chỉ tiêu bắt buộc về KHHGĐ. Với địa phương có mức sinh cao tiếp tục thực hiện các giải pháp giảm sinh. Với các tỉnh thường xuyên biến động về mức sinh, trong giai đoạn ngắn hạn chưa nên thực hiện chính sách khuyến sinh, cũng không không giao chỉ tiêu bắt buộc thực hiện KHHGĐ.
Thay đổi cơ chế cung cấp các dịch vụ DS/SKSS/KHHGĐ, nên thực hiện theo cơ chế tôn trọng nguyên tác của thị trường trong điều tiết các dịch vụ, nhưng cần ưu tiên nguồn lực để thực hiện nâng cao chất lượng dịch vụ DS/SKSS/KHHGĐ cho người dân tại các vùng khó khăn, vùng có mức sinh cao và cho nhóm đối tượng đặc thù (đồng bào dân tộc, người nghèo, người theo đạo công giáo).
Hàng năm có hướng dẫn, định hướng về công tác dân số và phát triển cho các địa phương triển khai thực hiện; triển khai các mô hình điểm về dân số và phát triển để các địa phương tham khảo, học tập. Nghiên cứu ban hành mẫu sổ khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi và hướng dẫn chi tiết thực hiện các dịch vụ kỹ thuật về khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số các cấp, đặc biệt sớm ban hành Quyết định, quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Dân số - KHHGĐ.
• Đối với các bộ, ngành
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhiệm vụ, đề án được giao trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm quyền.
Phối hợp với Bộ Y tế trong việc xây dựng các nhiệm vụ, đề án được giao, chỉ đạo các Sở, ngành liên quan tham mưu để trình UBND ban hành các kế hoạch triển khai thực hiện.
Định kỳ hàng năm báo cáo kết quả thực hiện gửi Bộ Y tế để có thông tin tổng hợp báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định.
• Với địa phương
Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền cần có những cam kết chính trị mạnh mẽ hơn trong việc thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW. Thường trực Ban chỉ đạo công tác dân số cần tham mưu để Lãnh đạo UBND các cấp ban hành quy chế hoạt động của ban chỉ đạo, phân công nhiệm vụ của từng thành viên ban chỉ đạo, định kỳ họp ban chỉ đạo theo quy định.
Nêu cao vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số, kịp thời xử lý vi phạm theo quy định, không bao che, không né tránh trong xử lý các trường hợp vi phạm.
Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về chương trình dân số nói chung và Nghị quyết số 21-NQ/TW nói riêng đến lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương và toàn thể nhân dân để từng cấp ủy, từng người dân nhận thức rõ hơn về quyền và trách nhiệm trong thực hiện công tác dân số.
Bố trí đủ nguồn lực từ ngân sách địa phương thực hiện toàn diện, đồng bộ công tác dân số theo phân cấp. Ban hành theo thẩm quyền cơ chế đầu tư nguồn lực, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt chính sách phù hợp với quy định của pháp luật và tình hình thực tế ở địa phương.
Ổn định tổ chức bộ máy làm công tác dân số theo hướng tinh gọn đầu mối nhưng đảm bảo số lượng người làm việc phù hợp với từng vị trí việc làm, đảm bảo trình độ chuyên môn để đảm nhiệm tốt công tác tham mưu và điều phối các hoạt động liên quan.
|