Đánh giá sự tham gia của y tế tư nhân trong khám chữa bệnh BHYT tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh
ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA Y TẾ TƯ NHÂN TRONG KHÁM CHỮA BỆNH BHYT TẠI HÀ NỘI, ĐÀ NẴNG VÀ TP HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Khánh Phương, Hoàng Thị Phượng,
Nguyễn Thị Thủy, Vương Lan Mai
Nơi công bố : Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
Năm công bố: 2009
Đặt vấn đề
Hiện nay, lĩnh vực y tế tư nhân (YTTN) ngày càng phát triển nhanh chóng và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống y tế. Hệ thống y tế Việt Nam đã được định hướng là một hệ thống dựa trên bảo hiểm y tế (BHYT) với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2014. Huy động sự tham gia của YTTN trong khám chữa bệnh (KCB) BHYT là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện mục tiêu trên. Tuy nhiên, tính đến năm 2008 mới chỉ có khoảng 120 cơ sở y tế tư nhân ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT. Trong khi đó, tình trạng quá tải tại các bệnh viện công lập đang là một vấn đề bức xúc lớn của ngành y tế và có liên quan trực tiếp tới việc thực hiện khám chữa bệnh BHYT. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế tiến hành nghiên cứu đánh giá thực trạng sự tham gia của các cơ sở y tế tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế cho người có BHYT nhằm tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất các biện pháp về chính sách và tổ chức thực hiện để từng bước mở rộng sự tham gia của các cơ sở y tế tư nhân trong ký kết hợp đồng khám chữa bệnh BHYT.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả thực trạng và phân tích thuận lợi, khó khăn của các cơ sở y tế tư nhân trong cung ứng dịch vụ KCB cho người có thẻ BHYT. Từ đó đề xuất các kiến nghị xây dựng chính sách nhằm tăng cường và mở rộng hệ thống cung ứng dịch vụ cho người có thẻ BHYT
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp điều tra mô tả cắt ngang có phân tích kết hợp với nghiên cứu bàn giấy thông qua việc thu thập các nghiên cứu, báo cáo có liên quan đến hoạt
động y tế tư nhân và số liệu sẵn có từ các cơ sở y tế tư nhân.
Kết quả nghiên cứu
Mức độ tham gia của YTTN trong khám chữa bệnh BHYT còn rất hạn chế. Chỉ có 65% bệnh viện tư nhân và 25% phòng khám đa khoa (PKĐK) tư nhân tham gia ký hợp đồng KCB BHYT. Đa số các PKĐK tư nhân chưa đủ điều kiện để đảm bảo cung cấp dịch vụ KCB BHYT.
Xu hướng đăng ký KCB ban đầu tại các cơ sở YTTN có tăng lên tại các cơ sở YTTN được khảo sát. Đối tượng tham gia đăng ký KCB BHYT tại các cơ sở YTTN chủ yếu là BHYT bắt buộc (trên 70 - 80% ở Hà Nội và Đà Nẵng và 55% ở TP. Hồ Chí Minh).
Tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, các cơ sở YTTN có xu hướng thiên về cung cấp dịch vụ ngoại trú hơn là điều trị nội trú. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ điều trị nội trú so với ngoại trú tại Hà Nội là 7,6% và ở TP. Hồ Chí Minh là 10,7 %. Nhưng tại Đà Nẵng tỷ lệ này là 51,2%.
Các bệnh viện tư nhân chưa được xếp hạng nên chưa có hướng dẫn cụ thể thống nhất về mức giá thanh toán cho các cơ sở YTTN cung cấp dịch vụ KCB BHYT. Hiện nay, các cơ sở YTTN được thanh toán bằng mức giá BV hạng 2 hoặc 3.
Các bệnh nhân BHYT đến KCB tại cơ sở YTTN đều phải trả khoản chi phí chênh lệch giữa chi phí theo mức giá của cơ sở YTTN và chi phí được cơ quan BHXH thanh toán cho cơ sở YTTN. Tỷ lệ chênh lệch tương đối cao do giá viện phí hiện hành quá thấp.
Vai trò của Cơ quan BHXH chưa thực sự được phát huy trong việc đảm bảo chất lượng dịch vụ và tính hợp lý của giá dịch vụ. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện hợp đồng KCB BHYT giữa cơ quan BHXH và các cơ sở YTTN về thẩm định, giám sát, theo dõi...
Kết luận
Sự tham gia của y tế tư nhân trong khám chữa bệnh BHYT hiện còn rất hạn chế. Khu vực tư nhân chỉ cung ứng 0,6% tổng số dịch vụ điều trị nội trú cho bệnh nhân BHYT. Tuy nhiên xu hướng đăng ký KCB ban đầu tại các cơ sở YTTN đang tăng lên.
Có sự khác nhau giữa các cơ sở YTTN về cơ cấu dịch vụ KCB ngoại trú và nội trú.
Hầu hết bệnh nhân BHYT đến KCB tại cơ sở YTTN đều phải trả khoản chi phí chênh lệch giữa chi phí theo mức giá của cơ sở YTTN và chi phí được cơ quan BHXH thanh toán cho cơ sở YTTN. Chi phí KCB BHYT các cơ sở YTTN có tỷ trọng chi cho xét nghiệm, chẩn đoán cao hơn rõ rệt so với cơ sở công lập.
Nhóm người nghèo rất hạn chế sử dụng dịch vụ do YTTN cung cấp do sợ phải đóng khoản chênh lệch.
Hiện còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện hợp đồng KCB BHYT giữa cơ quan BHXH và các cơ sở YTTN chủ yếu liên quan đến công tác quản lý nhà nước như thẩm định, giám sát, theo dõi cập nhật thông tin và mức giá thanh toán dịch vụ chưa phù hợp.
Khuyến nghị
Chính phủ và Bộ Y tế cần sớm ban hành bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp lý trong KCB BHYT cho cả hệ thống y tế công lập và ngoài công lập.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước và xây dựng các công cụ kỹ thuật trong việc giám sát chất lượng và giá dịch vụ y tế ngoài công lập để đảm bảo chuẩn hóa về chất lượng dịch vụ và hợp lý về giá dịch vụ cho người có thẻ BHYT.
Cần sớm điều chỉnh lại giá viện phí cho phù hợp chi phí KCB giúp minh bạch và hợp lý hóa trong quá trình thanh toán KCB nói chung và KCB BHYT nói riêng.
Cần tăng cường sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ giữa cơ quan BHXH các cấp và cơ quan quản lý y tế trong vấn đề YTTN tham gia KCB BHYT.
|