Sự khác biệt về giới trong sẵn sàng chi trả cho mô hình BHYT dựa vào cộng đồng ở một vùng nông thôn Việt nam
SỰ KHÁC BIỆT VỀ GIỚI TRONG SẴN SÀNG CHI TRẢ CHO MÔ HÌNH BHYT DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở MỘT VÙNG
NÔNG THÔN VIỆT NAM
Vương Lan Mai
Luận văn Thạc sỹ Y tế công cộng
Đại học Umea, Thuỵ Điển, 2005
Mục tiêu: Nghiên cứu sự khác biệt về giới trong sẵn sàng chi trả cho mô hình BHYT dựa vào cộng đồng và các yếu tố ảnh hưởng tới sự khác biệt này nhằm cung cấp thông tin giúp các nhà hoạch định chính sách xác định mức phí và đơn vị hưởng lợi hợp lý của mô hình.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên phân tích sự sẵn sàng chi trả
Kết quả: So với nam giới, nữ giới có trình độ học vấn thấp hơn, có số thành viên trong hộ gia đình và có số thành viên là người già ít hơn, tỷ lệ có bảo hiểm (bất kỳ loại nào) thấp hơn, tỷ lệ nữ giới là nông dân cao hơn, thuộc hộ nghèo (được phân loại bởi lãnh đạo địa phương) cao hơn và có nhiều trẻ em hơn trong hộ gia đình. Những đặc điểm này đã ảnh hưởng tới sự khác bịêt trong sẵn sàng chi trả cho mô hình BHYT dựa vào cộng đồng của nam và nữ. Nam giới sẵn sàng chi trả cao hơn nữ giới. Mức phí trung bình nam giới sẵn sàng chi trả là 20 073 đồng trong khi đó nữ giới sẵn sàng chi trả 16 682 đồng. Người nghèo sẵn sàng chi trả thấp hơn người giầu.
Kết luận: Sự khác biệt về các yếu tố kinh tế – xã hội giữa nam và nữ ảnh hưởng tới sự khác biệt của 2 đối tượng này trong sẵn sàng chi trả cho BHYT. Nam giới sẵn sàng chi trả cao hơn nữ giới.
Khuyến nghị: Cần phải tìm hiểu sự khác biệt về giới trong sẵn sàng chi trả cho BHYT của người dân. Để bảo vệ người nghèo, phụ nữ và người già, đơn vị hưởng lợi của thẻ BHYT dựa vào cộng đồng nên là hộ gia đình.
|